< Return to Video

Howard Gardner on Multiple Intelligences

  • 0:11 - 0:13
    Chúng ta tạo nên trường học bởi vì ta hy vọng rằng
  • 0:13 - 0:15
    khi trẻ rời ghế nhà trường các em vẫn có thể áp dụng
  • 0:15 - 0:17
    những gì bản thân đã học ở trường
  • 0:18 - 0:22
    Và hiện nay có hàng ngàn bằng chứng từ nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau
  • 0:23 - 0:27
    cho rằng trừ khi cá nhân đó tích cực tham gia vào
  • 0:27 - 0:29
    quá trình tiếp thu kiến thức,
    trừ khi họ học cách hỏi câu hỏi,
  • 0:29 - 0:34
    học cách thực hành, và về cơ bản học cách hình dung khái niệm
  • 0:34 - 0:38
    và chuyển hóa chúng khi cần,
    những ý tưởng đó sẽ tan vào mây khói.
  • 0:38 - 0:40
    Học sinh có thể đạt được
    điểm tốt trong bài thi.
  • 0:40 - 0:43
    Chúng ta có lẽ sẽ nghĩ rằng
    em ấy đã tiếp thu tốt, thế nhưng một hoặc
  • 0:43 - 0:46
    hai năm sau, kiến thức sẽ mai một đi mất.
  • 0:46 - 0:48
    Mặt khác, nếu một người tự mình
    tiến hành các thí nghiệm,
  • 0:48 - 0:53
    tự phân tích dữ liệu, phỏng đoán
    và kiểm chứng xem liệu chúng
  • 0:53 - 0:55
    có chính xác không; nếu một người
    nghiên cứu lịch sử
  • 0:55 - 0:58
    và trực tiếp đi phỏng vấn,
    tìm hiểu lịch sử truyền miệng,
  • 0:58 - 1:00
    sau đó tìm tòi tài liệu,
    nghe ngóng thông tin,
  • 1:00 - 1:03
    sau đó quay trở lại và
    hỏi sâu hơn, rồi viết một bài báo cáo
  • 1:03 - 1:05
    thì đó là những kỹ năng sẽ
    lưu lại lâu dài,
  • 1:05 - 1:08
    ngoài việc phải ghi nhớ một loạt
    những cái tên và và một loạt sự kiện
  • 1:08 - 1:11
    và hàng loạt -- thậm chí
    là hàng loạt các định nghĩa,
  • 1:11 - 1:12
    mà không còn cái gì khác hữu dụng cả.
  • 1:13 - 1:16
    Khái niệm Thuyết đa trí tuệ
    bắt nguồn từ ngành Tâm lý học.
  • 1:16 - 1:21
    Đây là một loại lý thuyết được
    phát triển để ghi nhận một thực tế
  • 1:21 - 1:24
    rằng con người có nhiều
    thế mạnh trí tuệ khác nhau
  • 1:25 - 1:29
    và các thế mạnh này đóng vai trò
    vô cùng quan trọng trong cách trẻ học
  • 1:30 - 1:32
    và cách mọi người hình dung
    sự vật trong suy nghĩ,
  • 1:33 - 1:34
    và cách họ sử dụng chúng để
  • 1:34 - 1:36
    thể hiện những gì mà
    bản thân đã tiếp thu.
  • 1:37 - 1:41
    Nếu chúng ta đều có cùng một
    lối suy nghĩ và chỉ có một loại
  • 1:41 - 1:43
    trí thông minh, thì chúng ta
    có thể dạy cho người khác
  • 1:43 - 1:47
    theo cùng một cách và đánh giá chúng
    theo cùng một hướng, và điều này sẽ hợp lý.
  • 1:47 - 1:50
    Nhưng khi chúng ta nhận ra rằng
    mỗi người đều có lối suy nghĩ khác nhau,
  • 1:50 - 1:51
    có một thế mạnh khác nhau
  • 1:51 - 1:54
    một số người có tư duy ngôn ngữ tốt,
  • 1:54 - 1:58
    một số khác có thể tư duy lô-gíc,
    một số khác lại cần thực hành;
  • 1:58 - 2:00
    những người như vậy
    cần chủ động khám phá
  • 2:01 - 2:05
    và thử qua nhiều thứ-- khi
    ta nhận ra điều đó mới thấy
  • 2:05 - 2:08
    cách giáo dục coi mọi người như nhau
    là cách giáo dục bất công nhất
  • 2:08 - 2:10
    bởi nó chỉ tập trung vào
    một lối tư duy,
  • 2:10 - 2:13
    mà tôi vẫn thường gọi là
    Tư duy giảng viên Luật,
  • 2:13 - 2:15
    một người giỏi ăn nói và rất lô-gíc, và thường nói:
    "Nếu em nghĩ như vậy, giỏi.
  • 2:15 - 2:18
    Nếu em không nghĩ được vậy,
    tôi không dạy được em."
  • 2:18 - 2:22
    Nếu chúng ta có một đứa trẻ
    có cách học
  • 2:22 - 2:26
    thiên về thị giác và không gian,
    một đứa trẻ khác học theo cách
  • 2:26 - 2:30
    thực hành, và đứa trẻ thứ ba thích
    hỏi các câu hỏi triết học sâu sắc,
  • 2:30 - 2:31
    đứa trẻ thứ tư thích những câu chuyện,
  • 2:31 - 2:33
    chúng ta không cần phải giảng nhanh
    khi là giáo viên.
  • 2:34 - 2:37
    Ta có thể cung cấp phần mềm,
    cung cấp tài liệu học,
  • 2:37 - 2:42
    hoặc các nguồn có thể
    cung cấp tài liệu học cho trẻ theo cách
  • 2:42 - 2:44
    thú vị và gây hứng thú
    cho trẻ và giúp các em
  • 2:44 - 2:49
    sử dụng trí tuệ của mình
    hiệu quả hơn, và khi công nghệ
  • 2:49 - 2:52
    có thể tương tác được,
    trẻ có thể tự tin thể hiện
  • 2:52 - 2:57
    hiểu biết của bản thân theo cách
    các em cảm thấy thoải mái nhất.
  • 2:57 - 3:00
    Chúng ta vẫn thường lầm tưởng rằng
    cách duy nhất để học một thứ gì đó là đọc
  • 3:00 - 3:03
    sách vở hoặc nghe giảng về
    chủ đề đó, và cách duy nhất để
  • 3:03 - 3:06
    thể hiện những gì mình đã tiếp thu
    là làm một bài tự luận ngắn
  • 3:06 - 3:08
    hoặc, thỉnh thoảng làm
    một bài tiểu luận kèm theo.
  • 3:08 - 3:09
    Nhưng điều đó thật vô nghĩa.
  • 3:10 - 3:11
    Mọi thứ đều có thể được dạy
    theo nhiều cách khách nhau,
  • 3:12 - 3:15
    và mọi kiến thức đã tiếp thu
    đều có thể được thể hiện theo nhiều cách.
  • 3:15 - 3:17
    Tôi không nghĩ rằng chỉ vì
    ta có tám loại trí tuệ, ta cần
  • 3:17 - 3:18
    dạy theo tám phương pháp khác nhau.
  • 3:18 - 3:19
    Làm như vậy thật buồn cười.
  • 3:19 - 3:21
    Dẫu vậy ta luôn phải
    tự hỏi bản thân,
  • 3:22 - 3:23
    "Liệu chúng ta có đang tiếp cận
    mọi đứa trẻ chưa, và nếu như chưa,
  • 3:23 - 3:25
    có những phương pháp nào khác
    để chúng ta có thể làm được điều đó?"
  • 3:27 - 3:30
    Tôi tin rằng chúng ta đang dạy
    quá nhiều môn học
  • 3:30 - 3:34
    và ta đang sử dụng quá nhiều
    tài liệu học tập, nhưng kết quả đạt được
  • 3:34 - 3:37
    lại là học sinh chỉ có
    kiến thức hời hợt
  • 3:37 - 3:41
    như ta vẫn thường ví von,
    rộng nhưng nông
  • 3:41 - 3:44
    và khi trẻ ròi khỏi ghế nhà trường,
    chúng sẽ quên hầu như mọi thứ.
  • 3:44 - 3:49
    Và tôi nghĩ rằng trường học cần
    thay đổi để có ít lĩnh vực hơn
  • 3:49 - 3:52
    mà phải thực sự đi vào
    những lĩnh vực đó sâu hơn.
  • 3:52 - 3:54
    Hãy lấy ví dụ về lĩnh vực khoa học đi.
  • 3:54 - 3:58
    Tôi không quan liệu đứa trẻ
    đang học vật lý hay sinh học hay địa lý
  • 3:58 - 4:01
    hay thiên văn học trước khi
    em ấy vào đại học.
  • 4:01 - 4:03
    Chúng ta có nhiều thời gian
    để đi vào tiểu tiết.
  • 4:04 - 4:06
    Tôi tin rằng điều quan trọng nhất
    là bắt đầu học cách
  • 4:06 - 4:10
    tư duy khoa học,
    học hiểu giả thuyết nghĩa là gì,
  • 4:10 - 4:13
    làm thế nào để kiểm chứng xem
    liệu chúng có chuẩn xác hay không;
  • 4:13 - 4:16
    Nếu giả thuyết đó sai, làm sao để
    sửa đổi chúng.
  • 4:16 - 4:17
    Điều đó tốn thời gian.
  • 4:17 - 4:21
    Không có cách nào để thể hiện nó
    trong một tuần hay thậm chí một tháng.
  • 4:22 - 4:25
    Ta phải học qua việc
    làm nhiều loại thử nghiệm,
  • 4:25 - 4:28
    xem kết quả liệu có như
    bản thân dự đoán không,
  • 4:28 - 4:30
    liệu kết quả và dự đoán
    có khác nhau không, và vân vân.
  • 4:30 - 4:36
    Khi ta tập trung vào khoa học theo
    hướng này, vào lúc ta vào
  • 4:36 - 4:38
    00:04:35,786 --> 00:04:37,946
    học đại học-- hoặc nếu ta
    không học đại học, khi ta làm
  • 4:38 - 4:40
    ở cơ quan-- ta có thể
    phân biệt giữa một phát biểu
  • 4:40 - 4:43
    mang tính chủ quan
    hoặc định kiến,
  • 4:43 - 4:46
    và phát biểu có
    bằng chứng xác đáng.
  • 4:46 - 4:49
    Điều quan trọng nhất của
    việc đánh giá là biết được thứ
  • 4:50 - 4:51
    mà bản thân có thể làm.
  • 4:51 - 4:55
    Với tôi, cách tốt nhất để hình dung
    là khi một đứa trẻ học chơi thể thao
  • 4:55 - 4:58
    hoặc một đứa trẻ học nghệ thuật,
    bởi chúng không hề
  • 4:58 - 5:00
    bí ẩn trong việc làm sao để
    trở thành một tiền vệ
  • 5:00 - 5:02
    hay một vận động viên trượt băng
    hoặc một nghệ sĩ violin.
  • 5:02 - 5:05
    Khi ta quan sát, khi ta trải nghiệm,
    khi ta được huấn luyện,
  • 5:05 - 5:06
    ta sẽ thấy được bản thân đang cải thiện.
  • 5:06 - 5:08
    Ta biết được
    so với các đứa trẻ khác.
  • 5:09 - 5:11
    Ở trường học, việc kiểm tra trở thành một bí ẩn.
  • 5:11 - 5:13
    Không ai biết trong bài kiểm tra
    sẽ có nội dung gì,
  • 5:13 - 5:15
    và khi nào sẽ có kết quả,
  • 5:15 - 5:17
    cả giáo viên và học sinh
    đều không biết cần phải làm gì.
  • 5:17 - 5:22
    Do vậy, tôi thiên về hướng nhấn mạnh
    cho trẻ, vào ngày các em cất bước
  • 5:22 - 5:25
    đến trường,
    rằng đâu là các thành tích
    và đâu là các bài thuyết trình
  • 5:25 - 5:27
    mà các em cần phải
    đạt được trong năm.
  • 5:27 - 5:29
    Hãy trở nên thực tế hơn.
  • 5:29 - 5:32
    Hãy nhìn vào những thứ mà
    chúng ta coi trọng nhất.
  • 5:32 - 5:34
    Hãy rõ ràng nhất có thể.
  • 5:34 - 5:37
    Hãy cung cấp thông tin phản hồi cho trẻ
    sớm nhất có thể,
  • 5:37 - 5:39
    và để trẻ hấp thụ
    những phản hồi đó
  • 5:39 - 5:43
    từ đó trẻ sẽ biết được mình đang
    làm tốt những gì, và điều gì chưa tốt.
  • 5:43 - 5:46
    Tôi là một nhà văn, và hồi đầu tôi cần
    rất nhiều phản hồi từ biên tập viên,
  • 5:46 - 5:48
    bao gồm rất nhiều từ chối từ họ.
  • 5:48 - 5:51
    Nhưng theo thời gian, tôi biết được đâu là
    điều quan trọng, tôi biết cách tự biên tập,
  • 5:51 - 5:55
    và giờ đây, phản hồi từ
    biên tập viên ít cần thiết hơn nhiều.
  • 5:55 - 5:58
    Và tôi tin rằng, là người trưởng thành,
    ta đều biết rằng khi càng thành thạo
  • 5:58 - 6:01
    một lĩnh vực, ta cần càng ít
    phê bình từ bên ngoài hơn;
  • 6:01 - 6:03
    chúng ta có một kỹ năng
    gọi là tự đánh giá.
  • 6:03 - 6:06
    Và trong trường học, việc đánh giá không nên
    là một thứ được làm hộ bản thân.
  • 6:06 - 6:09
    Mà thay vào đó,
    ta là một nhân tố chủ động.
  • 6:09 - 6:14
    Tôi nghĩ rằng nền giáo dục Mỹ
    nên được thay đổi từ lâu
  • 6:14 - 6:18
    cần mở rộng hơn
    thay vì chỉ ở ngoài lề
  • 6:19 - 6:21
    trước hết người ta cần phải xem
    các tiền lệ về những nơi
  • 6:21 - 6:26
    giống với khu vực của mình, mà ở đó
    phương pháp giáo dục mới thực sự thành công,
  • 6:26 - 6:30
    kiến thức được học sinh tiếp thu hiệu quả,
  • 6:31 - 6:33
    ở đó các em có thể trình bày
    kiến thức một cách thoải mái,
  • 6:33 - 6:35
    và ở đó mọi người sẽ
    nhìn vào các em và nói,
  • 6:35 - 6:37
    "Tôi cũng muốn có
    con cái giỏi như thế này."
  • 6:37 - 6:39
    Do đó chúng ta cần có
    nhiều ví dụ tốt.
  • 6:39 - 6:43
    Thứ hai, chúng ta cần có
    những cá nhân đóng vai trò
  • 6:43 - 6:46
    trong giáo dục, cụ thể là giáo viên
    và phía giám hiệu, những người tin tưởng,
  • 6:47 - 6:50
    muốn thực hiện điều đó, và nhận được
    sự giúp đỡ cần thiết để
  • 6:50 - 6:54
    thay đổi lối tư duy, ví như
    lấy giáo viên là trung tâm,
  • 6:54 - 6:57
    kiểu dạy "nhồi kiến thức
    vào đầu trẻ",
  • 6:58 - 7:00
    thành kiểu dạy kiến thức
    là thứ yếu, thay vào đó
  • 7:00 - 7:04
    để trẻ trở thành nhân tố chính
    của việc học tập.
  • 7:04 - 7:08
    Thứ ba, tôi nghĩ chúng ta cần có
    một số phương thức đánh giá
  • 7:08 - 7:11
    có thể thuyết phục được người khác rằng
    loại hình giáo dục này có hiệu quả.
  • 7:11 - 7:13
    Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
    sẽ trở nên vô ích
  • 7:13 - 7:16
    nếu ta vẫn sử dụng loại hình
    kiểm tra trắc nghiệm cũ
  • 7:16 - 7:18
    từ 50 hay 100 năm trước.
  • 7:18 - 7:23
    Cuối cùng, tôi tin rằng ta cần phải có
    một cam kết từ nhà nước xác nhận
  • 7:23 - 7:27
    rằng tính cần thiết của phương pháp này
    đối với nền giáo dục nước nhà,
  • 7:27 - 7:30
    và thậm trí cả với các quốc gia khác,
    trong tương lai gần.
  • 7:30 - 7:35
    Và khi mọi người vẫn còn
    chê trách giáo viên và than phiền
  • 7:35 - 7:38
    rằng ta không thể thử thứ mới
    bởi chúng dễ thất bại,
  • 7:38 - 7:41
    thì việc cải cách sẽ bị trì trệ
    mãi như trước đây.
  • 7:42 - 7:44
    >>Để tìm hiểu thêm về phương pháp hiệu quả
  • 7:44 - 7:48
    trong giáo dục công,
    hãy truy cập edutopia.org
Title:
Howard Gardner on Multiple Intelligences
Description:

more » « less
Video Language:
English
Team:
PACE
Duration:
07:55

Vietnamese subtitles

Revisions Compare revisions