< Return to Video

Lịch sử của những ngôn ngữ bản địa -- và làm thế nào để hồi sinh chúng

  • 0:01 - 0:03
    Dene elder Paul Disain đã nói rằng:
  • 0:03 - 0:05
    "Ngôn ngữ và văn hóa của chúng ta
  • 0:05 - 0:07
    là cánh cửa sổ nơi ta nhìn ra thế giới".
  • 0:07 - 0:08
    Và ở trên hòn đảo Turtle,
  • 0:08 - 0:10
    nơi được biết đến là Bắc Mỹ,
  • 0:10 - 0:13
    có nhiều cách đặc biệt và tuyệt vời
    để ngắm nhìn thế giới.
  • 0:13 - 0:15
    Là một người dân bản địa,
  • 0:15 - 0:18
    tôi thích thú trong việc học
    ngôn ngữ Anishinaabemowin,
  • 0:18 - 0:20
    vốn là ngôn ngữ cội nguồn của tôi,
  • 0:20 - 0:23
    bởi vì nó cho phép tôi ngắm nhìn thế giới
    qua ô cửa sổ đó.
  • 0:23 - 0:25
    Nó giúp tôi kết nối với gia đình,
  • 0:25 - 0:27
    tổ tiên, cộng đồng, nền văn hóa của tôi.
  • 0:27 - 0:29
    Và giúp tôi nghĩ cách
    làm sao để lưu truyền lại
  • 0:29 - 0:30
    cho các thế hệ tương lai.
  • 0:31 - 0:32
    Là một nhà ngôn ngữ học,
  • 0:32 - 0:35
    tôi quan tâm tới các chức năng nói chung
    của ngôn ngữ.
  • 0:35 - 0:37
    Tôi nhìn vào ngữ âm và âm vị học --
  • 0:37 - 0:38
    âm tố.
  • 0:38 - 0:41
    Tôi có thể nhìn vào hình thái học,
    hoặc cấu trúc của từ.
  • 0:41 - 0:42
    Tôi có thể nhìn vào cú pháp học,
  • 0:42 - 0:45
    vốn là cấu trúc câu và cụm từ,
  • 0:45 - 0:48
    để tìm hiểu cách mà con người
    lưu trữ ngôn ngữ trong bộ não
  • 0:48 - 0:51
    và cách chúng ta sử dụng chúng
    để giao tiếp với mọi người.
  • 0:52 - 0:54
    Lấy ví dụ là,
  • 0:54 - 0:57
    Anishinaabemowin
    giống như hầu hết ngôn ngữ bản địa,
  • 0:57 - 0:59
    được gọi là ngôn ngữ đa hỗn hợp,
  • 0:59 - 1:02
    điều đó có nghĩa là
    có những từ rất, rất dài,
  • 1:02 - 1:05
    gồm những nhánh nhỏ gọi là hình thái từ.
  • 1:05 - 1:10
    Vì thế tôi có thể nói tiếng
    Anishinaabemowin: "niwiisin" - "tôi ăn"
  • 1:10 - 1:11
    chính là một từ.
  • 1:11 - 1:15
    Tôi có thể nói: "nimino-wiisin,"
    nghĩa là: "tôi ăn rất khỏe",
  • 1:15 - 1:16
    đây vẫn là một từ.
  • 1:16 - 1:21
    Tôi có thể nói: "nimino-naawakwe-wiisin" -
    "Tôi đã ăn một bữa trưa ngon lành"
  • 1:21 - 1:24
    Có bao nhiêu từ trong tiếng Anh nhỉ?
  • 1:24 - 1:28
    Tận năm từ trong tiếng Anh,
    một từ đơn trong tiếng Anishinaabemowin.
  • 1:29 - 1:31
    Bây giờ, tôi có một câu đố cho các bạn.
  • 1:31 - 1:34
    Trả lời câu hỏi bằng một từ,
    trang trình chiếu này có màu gì?
  • 1:34 - 1:35
    (Khán giả): Màu xanh lá.
  • 1:35 - 1:37
    Trang trình chiếu này có màu gì?
  • 1:37 - 1:38
    Khán giả: Màu xanh lá.
  • 1:39 - 1:40
    Đây là màu gì?
  • 1:40 - 1:41
    Khán giả: Màu xanh dương.
  • 1:41 - 1:43
    Và trang này có màu gì?
  • 1:43 - 1:44
    (Khán giả thì thầm)
  • 1:44 - 1:47
    Không phải câu hỏi mẹo đâu, tôi hứa đó.
  • 1:47 - 1:49
    Đối với bạn, một người nói tiếng Anh,
  • 1:49 - 1:51
    bạn thấy hai trang chiếu
    màu xanh lá và xanh dương.
  • 1:51 - 1:54
    Nhưng cách ta phân loại màu sắc
    khác nhau tùy thuộc vào ngôn ngữ.
  • 1:54 - 1:56
    Vậy nên nếu bạn nói tiếng Nga,
  • 1:56 - 1:59
    bạn sẽ thấy hai trang chiếu
    có sắc thái xanh lá khác nhau.
  • 1:59 - 2:01
    Một cái là: "goluboy,"
    có nghĩa là màu xanh nhạt,
  • 2:01 - 2:03
    còn màu kia là: "siniy" - xanh đậm.
  • 2:03 - 2:06
    Và những màu trên được xem là
    những màu khác nhau.
  • 2:06 - 2:07
    Nếu bạn nói ngôn ngữ Anishinaabemowin,
  • 2:07 - 2:10
    bạn sẽ thấy những trang chiếu này
    là Ozhaawashkwaa
  • 2:10 - 2:14
    hoặc OZhaawashkozi,
    nghĩa là hoặc màu xanh lá hoặc xanh dương.
  • 2:14 - 2:16
    Không phải là những người khác
    không nhìn thấy màu đó,
  • 2:16 - 2:20
    chỉ là cách họ phân loại chúng
    và cách họ hiểu về sắc độ
  • 2:20 - 2:21
    rất khác nhau.
  • 2:21 - 2:22
    Tại cùng một thời điểm,
  • 2:23 - 2:26
    có hàng tỉ cách mà con người
    phân loại màu sắc,
  • 2:26 - 2:28
    và điều này nói về cách mà
    bộ não của con người
  • 2:28 - 2:31
    hiểu và thể hiện những gì họ thấy được.
  • 2:32 - 2:35
    Anishinaabemowin
    làm một điều tuyệt vời khác,
  • 2:35 - 2:38
    đó là sinh động hóa đánh dấu lên các từ.
  • 2:38 - 2:40
    Vì vậy mà nó không giống tiếng Pháp
    hay Tây Ban Nha
  • 2:40 - 2:43
    đánh dấu các từ là nam tính hay nữ tính.
  • 2:43 - 2:45
    Anishinaabemowin
    và các ngôn ngữ Algonquian khác
  • 2:45 - 2:49
    đánh dấu tất cả các từ
    như là vật sống hoặc vô tri.
  • 2:49 - 2:51
    Những thứ bạn tin là vật sống
    là những vật sống,
  • 2:51 - 2:55
    những thứ có cảm xúc:
    con người, động vật, cây trồng.
  • 2:55 - 2:57
    Nhưng có một vài thứ khác
    cũng được coi là vật sống
  • 2:57 - 3:00
    mà hẳn bạn không ngờ được,
    ví dụ như những viên đá.
  • 3:00 - 3:01
    Đá được đánh dấu là vật sống,
  • 3:01 - 3:04
    và điều đó cho chúng ta thấy
    điều cực kỳ thú vị của ngữ pháp,
  • 3:04 - 3:06
    và nó cũng nói cho ta những điều thú vị
  • 3:06 - 3:08
    về cách mà người Anishinaabemowin
  • 3:08 - 3:10
    liên tưởng và hiểu thế giới xung quanh họ.
  • 3:10 - 3:12
    Bây giờ, phần buồn nhất
  • 3:12 - 3:16
    là ngôn ngữ bản địa
    đang gặp nguy hiểm.
  • 3:16 - 3:20
    Ngôn ngữ bản địa sở hữu rất nhiều
    kiến thức về văn hóa,
  • 3:20 - 3:21
    về lịch sử,
  • 3:21 - 3:23
    về cách để liên tưởng tới một người khác,
  • 3:23 - 3:25
    về cách liên tưởng tới
    môi trường của chúng ta.
  • 3:25 - 3:27
    Đã từng ở trên vùng đất này
    từ thời xa xưa,
  • 3:27 - 3:29
    những ngôn ngữ này
    đã được phát triển ở đây
  • 3:29 - 3:33
    và chúng chứa những kiến thức vô giá
    về môi trường
  • 3:33 - 3:36
    mà có thể giúp ta kết nối với
    vùng đất mà ta đang sống.
  • 3:37 - 3:40
    Nhưng thực tế là,
    chúng đang gặp nguy hiểm.
  • 3:40 - 3:43
    Đại đa số ngôn ngữ bản địa ở Bắc Mỹ
  • 3:43 - 3:44
    được coi là đang gặp nguy hiểm,
  • 3:44 - 3:47
    những ngôn ngữ không gặp nguy hểm
    thì đang bị tổn hại.
  • 3:48 - 3:50
    Đây là những điều đã được định sẵn.
  • 3:51 - 3:53
    Trong luật pháp, trong chính sách
    của chúng tôi,
  • 3:53 - 3:55
    trong nhà quản trị của chúng tôi,
  • 3:55 - 3:58
    đã có những nỗ lực
  • 3:58 - 4:02
    để loại bỏ các ngôn ngữ bản địa
    và các nền văn hóa ở đất nước này.
  • 4:02 - 4:03
    Duncan Campbell Scott
  • 4:03 - 4:07
    là một trong những kiến ​​trúc sư
    của hệ thống trường dân cư.
  • 4:07 - 4:11
    Trong bảng một hóa đơn cần thiết
    bắt buộc đi học
  • 4:11 - 4:14
    đối với trẻ em bản địa năm 1920, ông nói:
  • 4:14 - 4:16
    "Tôi muốn loại bỏ những vấn đề của Ấn Độ.
  • 4:17 - 4:18
    Mục tiêu của chúng ta là tiếp tục
  • 4:18 - 4:21
    cho đến khi không còn sót lại
    một người Ấn nào ở Canada
  • 4:21 - 4:23
    mà chưa bị hấp thụ vào thể chế chính trị
  • 4:24 - 4:27
    và không có người Ấn Độ nào
    được biểu quyết, không có Bộ Ấn Độ;
  • 4:27 - 4:30
    đây là toàn bộ mục tiêu của dự Luật này."
  • 4:31 - 4:33
    Sự tàn bạo xảy ra trong các trường dân cư
    đã được ghi lại.
  • 4:34 - 4:35
    Năm 1907,
  • 4:35 - 4:40
    P.H. Bryce, một bác sĩ
    và một chuyên gia về bệnh lao,
  • 4:40 - 4:42
    xuất bản một báo cáo
    cho thấy rằng ở một số trường học,
  • 4:42 - 4:46
    25 phần trăm trẻ em đã chết
    vì bệnh lao
  • 4:46 - 4:49
    gây ra bởi các điều kiện ở các trường.
  • 4:49 - 4:53
    Trong những ngôi trường khác,
    có đến 75% trẻ em tử vong.
  • 4:54 - 4:56
    Ông đã bị cắt tài trợ
    bởi chính phủ liên bang
  • 4:56 - 4:58
    vì những phát hiện của mình,
  • 4:58 - 5:00
    buộc phải nghỉ hưu vào năm 1921,
  • 5:00 - 5:03
    và năm 1922, phát hiện của ông
    được công bố rộng rãi.
  • 5:05 - 5:06
    Và qua thời gian đó,
  • 5:06 - 5:09
    trẻ em bản địa bị bắt đi
    từ nhà của chúng,
  • 5:09 - 5:10
    từ cộng đồng
  • 5:11 - 5:13
    và bị buộc phải vào nhà thờ
    trường dân cư
  • 5:13 - 5:15
    nơi chúng phải chịu đựng,
    về nhiều mặt,
  • 5:15 - 5:18
    tình cảm, thể chất nghiêm trọng
    và lạm dụng tình dục,
  • 5:18 - 5:20
    trong tất cả các trường hợp,
    ngược đãi về văn hóa,
  • 5:20 - 5:22
    vì những ngôi trường này được thiết kế
  • 5:22 - 5:25
    để loại bỏ ngôn ngữ bản địa và văn hóa.
  • 5:25 - 5:29
    Trường dân cư cuối cùng
    đóng cửa năm 1996.
  • 5:30 - 5:35
    Cho đến thời điểm đó, 150.000 trẻ em
    đã tham gia vào trường dân cư
  • 5:35 - 5:38
    tại 139 tổ chức trên cả nước.
  • 5:39 - 5:40
    Năm 2007,
  • 5:40 - 5:44
    trường dân cư Ấn Độ
    Thỏa thuận giải quyết có hiệu lực.
  • 5:44 - 5:47
    Đây là vụ kiện tập thể lớn nhất
    trong lịch sử Canada.
  • 5:47 - 5:50
    Nó dành ra 60 triệu đô la
  • 5:50 - 5:53
    cho sự thành lập của sự thật
    và Ủy ban Hòa giải Canada (TRC).
  • 5:54 - 5:59
    TRC đã tặng chúng ta khả năng để nghe
    các câu chuyện của những người sống sót
  • 5:59 - 6:02
    để nghe những tác động
    lên cộng đồng và gia đình
  • 6:02 - 6:04
    và để tiếp cận nghiên cứu
  • 6:05 - 6:08
    để khám phá ra đầy đủ những hậu quả
    của trường dân cư
  • 6:08 - 6:12
    lên cộng đồng người bản địa
    và lên toàn bộ Canada.
  • 6:12 - 6:15
    TRC nhận thấy rằng các trường dân cư
  • 6:15 - 6:17
    cấu thành cái gọi là
    diệt chủng văn hóa.
  • 6:17 - 6:21
    Họ nói rằng: "Diệt chủng vật lý
    là sự giết chóc hàng loạt các thành viên
  • 6:21 - 6:22
    của một nhóm mục tiêu,
  • 6:22 - 6:26
    diệt chủng sinh học là sự hủy diệt
    khả năng sinh sản của nhóm đó.
  • 6:26 - 6:31
    Và diệt chủng văn hóa là sự hủy diệt
    của những cấu trúc và quy tắc
  • 6:31 - 6:33
    chứng minh một dân tộc còn tồn tại".
  • 6:33 - 6:36
    Các mục tiêu đã nêu
    của Duncan Campbell Scott.
  • 6:36 - 6:39
    Vì vậy, họ thấy rằng
    đó là diệt chủng văn hóa,
  • 6:39 - 6:41
    mặc dù
    là một tác giả viết truyện thiếu nhi
  • 6:41 - 6:45
    và một diễn giả tuyệt vời
    David Bouchard chỉ ra,
  • 6:45 - 6:47
    khi xây dựng một tòa nhà,
  • 6:47 - 6:50
    và ta xây một nghĩa trang
    bên cạnh tòa nhà đó,
  • 6:50 - 6:55
    bởi vì bạn biết mọi người
    đi vào tòa nhà đó sẽ mất,
  • 6:55 - 6:56
    bạn gọi nó là gì?
  • 6:58 - 7:02
    TRC cũng tặng chúng tôi
    với 94 lời kêu gọi hành động,
  • 7:02 - 7:06
    đèn hiệu có thể dẫn đường phía trước
    khi chúng tôi làm việc để hòa giải.
  • 7:06 - 7:11
    Một vài trong số đó liên quan trực tiếp
    ngôn ngữ và văn hóa.
  • 7:11 - 7:15
    TRC gọi cho chúng tôi để đảm bảo
    giáo dục đầy đủ, được tài trợ,
  • 7:15 - 7:16
    bao gồm ngôn ngữ và văn hóa.
  • 7:16 - 7:20
    Để nhận thức được quyền lợi của địa phương
    bao gồm quyền lợi về ngôn ngữ.
  • 7:20 - 7:22
    Để đặt ra một nghị quyết
    về ngôn ngữ Aboriginal
  • 7:22 - 7:25
    hướng đến việc thừa nhận và bảo tồn
    ngôn ngữ bản địa,
  • 7:25 - 7:27
    với nguồn quỹ cố định.
  • 7:27 - 7:30
    Thiết lập một ví trí cho
    cố vấn về các ngôn ngữ Aboriginal
  • 7:30 - 7:33
    và phát triển những chương trình
    dạy ngôn ngữ ở bậc sau phổ thông
  • 7:33 - 7:36
    cũng như phục hồi lại địa danh
    đã bị thay đổi
  • 7:36 - 7:38
    suốt quá trình thực dân hóa.
  • 7:39 - 7:42
    Cùng thời điểm Thỏa thuận Hòa giải
    các trường dân cư Ấn Độ
  • 7:43 - 7:44
    có hiệu lực thi hành,
  • 7:44 - 7:46
    Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua
  • 7:46 - 7:49
    Tuyên bố về quyền của người dân bản địa
  • 7:49 - 7:50
    trong năm 2007.
  • 7:50 - 7:54
    Điều đó tuyên bố rằng người dân bản địa
    có quyền thành lập và kiểm soát
  • 7:54 - 7:57
    hệ thống giáo dục và các tổ chức
  • 7:57 - 7:59
    cung cấp giáo dục
    bằng chính ngôn ngữ của họ,
  • 7:59 - 8:02
    theo cách phù hợp với phương pháp
  • 8:02 - 8:04
    giảng dạy và học tập theo văn hóa của họ.
  • 8:04 - 8:05
    Năm 2007,
  • 8:05 - 8:07
    khi nghị quyết được đưa vào thực hiện,
  • 8:07 - 8:09
    bốn quốc gia đã bỏ phiếu chống lại.
  • 8:09 - 8:12
    Họ là Hoa Kỳ, New Zealand, Úc
  • 8:12 - 8:13
    và Canada.
  • 8:13 - 8:16
    Canada đã thông qua tuyên bố
    của Liên hiệp quốc
  • 8:16 - 8:19
    về quyền của người bản địa trong năm 2010.
  • 8:19 - 8:22
    Và trong năm 2015, chính phủ hứa hẹn
    thực hiện chính sách ấy.
  • 8:24 - 8:29
    Vậy chúng ta sẽ đáp lại thế nào?
  • 8:29 - 8:32
    Đây là tình trạng của chúng ta.
  • 8:32 - 8:35
    Trong 60 tỉnh thành
    hiện tại nói tiếng bản địa ở Canada,
  • 8:35 - 8:40
    tất cả ngôn ngữ được Liên hiệp quốc xét là
    tuyệt chủng ngoại trừ sáu ngôn ngữ.
  • 8:40 - 8:45
    Và, sáu ngôn ngữ đó là Cree,
    Anishinaabemowin,
  • 8:45 - 8:48
    Stoney, Mi'kmaq,
  • 8:48 - 8:50
    Dene và Inuktitut.
  • 8:50 - 8:52
    Và có vẻ như điều đó thật khủng khiếp.
  • 8:52 - 8:55
    Nhưng nếu bạn tiếp tục nhìn vào
    Atlas ngôn ngữ thế giới đang gặp nguy hiểm
  • 8:55 - 8:58
    thông qua trang web của UNESCO,
  • 8:58 - 9:01
    bạn sẽ thấy một chút "r"
    ngay bên cạnh ngôn ngữ đó ngay tại đó.
  • 9:01 - 9:03
    Ngôn ngữ đó là Mi'kmaq.
  • 9:03 - 9:06
    Mi'kmaq đã và đang trải qua
    sự hồi sinh đầy ý nghĩa
  • 9:06 - 9:08
    bởi vì thông qua hiệp ước
    của chính quyền tự trị
  • 9:08 - 9:11
    dẫn tới sự giáo dục về văn hóa
    và ngôn ngữ cơ sở,
  • 9:11 - 9:13
    và hiện tại có những đứa bé Mi'kmaq
  • 9:13 - 9:15
    nói tiếng Mi'kmaq như tiếng mẹ đẻ.
  • 9:15 - 9:17
    Có rất nhiều điều ta có thể làm.
  • 9:17 - 9:19
    Những đứa trẻ này là học sinh
  • 9:19 - 9:21
    trong trường Mnidoo Mnising
    Anishinabek Kinoomaage,
  • 9:22 - 9:24
    một trường học trên đảo Manitoulin,
  • 9:24 - 9:26
    nơi mà các em học
    ngôn ngữ Anishinaabemowin.
  • 9:26 - 9:28
    Các em đến trường
    ở lứa tuổi mẫu giáo
  • 9:28 - 9:31
    nói rất ít, nếu có,
    ngôn ngữ Anishinaabemowin.
  • 9:31 - 9:34
    Và bây giờ, ở lớp ba và bốn,
  • 9:34 - 9:37
    các học sinh đang được kiểm tra
    ở trình độ trung cấp và lưu loát.
  • 9:37 - 9:38
    Trong cùng thời điểm đó,
  • 9:38 - 9:41
    các em có sự tự tin tốt đẹp.
  • 9:41 - 9:43
    Các em tự hào là một người Anishinaabe,
  • 9:43 - 9:46
    và các em có khả năng học hỏi tốt.
  • 9:46 - 9:50
    Không phải bất cứ loại hình giáo dục nào
    cũng phải là loại hình chính thức.
  • 9:50 - 9:52
    Trong cộng đồng địa phương,
  • 9:52 - 9:55
    chúng ta có Kingston
    Indigenous Language Nest (KILN).
  • 9:55 - 9:57
    Bây giờ KILN là một tổ chức,
  • 9:57 - 10:00
    nhưng nó đã bắt đầu sáu năm trước
    với những thành viên nhiệt tình
  • 10:00 - 10:03
    tụ họp lại quanh một cái bàn bếp
    của một người lớn tuổi.
  • 10:03 - 10:07
    Kể từ lúc đó, chúng tôi đã tạo ra
    trải nghiệm học tập cuối tuần
  • 10:07 - 10:09
    với mục đích học tập đa nhiệm,
  • 10:09 - 10:12
    nơi mà chúng tôi tập trung vào
    lưu truyền ngôn ngữ và văn hóa đến trẻ em.
  • 10:12 - 10:17
    Chúng tôi thực hiện bằng các trò chơi,
    bài hát, đồ ăn và hoạt động truyền thống.
  • 10:17 - 10:18
    Chúng tôi có những lớp học
  • 10:18 - 10:20
    cho cả trình độ vỡ lòng và trung cấp
  • 10:20 - 10:21
    được cung cấp ngay tại đây.
  • 10:21 - 10:24
    Chúng tôi liên kết với
    hội đồng trường và các thư viện
  • 10:24 - 10:28
    để có tài nguyên và ngôn ngữ
    tại chỗ trong giáo dục chính quy.
  • 10:29 - 10:30
    Những khả năng thì vô tận,
  • 10:31 - 10:33
    và tôi rất vui mừng
    vì công việc đã được hoàn thành
  • 10:33 - 10:37
    cho phép tôi truyền lại ngôn ngữ
    và văn hóa cho con trai của mình
  • 10:37 - 10:39
    và cho những đứa trẻ khác
    trong cộng đồng của chúng tôi.
  • 10:39 - 10:43
    Chúng tôi đã phát triển một cộng đồng
    vừa vững chắc, vừa tốt đẹp, sôi động,
  • 10:43 - 10:45
    là kết quả của sự chung tay góp sức.
  • 10:46 - 10:49
    Vậy chúng ta cần gì
    để tiến lên phía trước?
  • 10:49 - 10:51
    Đầu tiên, ta cần chính sách.
  • 10:52 - 10:55
    Ta cần ban hành chính sách
    với tài trợ cố định
  • 10:55 - 10:58
    để đảm bảo rằng ngôn ngữ bản địa
  • 10:58 - 11:01
    được kết hợp vào việc giảng dạy
    một cách có ý nghĩa,
  • 11:01 - 11:02
    cả trong và ngoài khu bảo tồn.
  • 11:02 - 11:06
    Trong khu bảo tồn, việc giảng dạy
    được gây quỹ mức độ thấp hơn đáng kể
  • 11:06 - 11:07
    so với quỹ ở ngoài khu bảo tồn.
  • 11:07 - 11:09
    Và ngoài khu bảo tồn,
  • 11:09 - 11:11
    Sự giáo dục ngôn ngữ bản địa
    thường bị bỏ lơ,
  • 11:11 - 11:13
    bởi vì mọi người thường tin rằng
  • 11:13 - 11:15
    người bản địa không xuất hiện
    ở các trường tỉnh,
  • 11:15 - 11:19
    khi trên thực tế, lên đến 70 phần trăm
    người bản địa hiện tại sống ở Canada
  • 11:19 - 11:20
    sống dựa vào khu bảo tồn.
  • 11:20 - 11:24
    Những đứa trẻ đều có quyền được tiếp cận
    ngôn ngữ và văn hóa của chúng.
  • 11:26 - 11:28
    Hơn cả các chính sách,
    chúng tôi cần hỗ trợ.
  • 11:28 - 11:31
    Và điều này
    không có nghĩa là hỗ trợ về kinh phí.
  • 11:31 - 11:34
    Chúng ta cũng cần nơi
    để thực hiện các hoạt động,
  • 11:34 - 11:39
    lớp học và sự tương tác với
    những người không phải bản xứ.
  • 11:40 - 11:41
    Chúng ta cần sự hỗ trợ
  • 11:41 - 11:44
    giống những người mong muốn học ngôn ngữ.
  • 11:44 - 11:48
    Chúng ta cần sự hỗ trợ ở nơi mọi người
    bàn về tại sao ngôn ngữ ấy quan trọng.
  • 11:48 - 11:50
    Và để đạt được điều này,
    chúng ta cần giáo dục.
  • 11:50 - 11:53
    Ta cần tiếp cận chủ yếu vào
    việc giáo dục ngôn ngữ,
  • 11:53 - 11:56
    vì chắc chắn đó là cách hiệu quả nhất
  • 11:56 - 11:59
    để đảm bảo được sự lưu truyền
    của ngôn ngữ Bản địa.
  • 11:59 - 12:02
    Nhưng chúng tôi cũng cần giáo dục
    ở trường thuộc các tỉnh,
  • 12:02 - 12:04
    chúng ta cần sự giáo dục cho những
    dân cư không phải bản xứ
  • 12:04 - 12:07
    để chúng ta có sự thấu hiểu lẫn nhau
  • 12:07 - 12:09
    và cùng nhau tiến tới
    một tương lai tốt đẹp.
  • 12:10 - 12:14
    Tôi có một câu nói được treo trong khung
    trên bức tường của phòng làm việc.
  • 12:14 - 12:17
    Nó là món quà từ một học trò thân thiết
    mà tôi đã dạy một vài năm trước đó,
  • 12:17 - 12:19
    và nó luôn nhắc nhở tôi mỗi ngày rằng
  • 12:19 - 12:22
    ta có thể đạt được những thành tựu lớn
    nếu ta làm cùng nhau.
  • 12:23 - 12:25
    Nhưng nếu ta dự định bàn về
    sự hòa hợp,
  • 12:25 - 12:27
    ta cần nhận thức được rằng
  • 12:27 - 12:30
    sự hòa hợp không đem lại kết quả
  • 12:30 - 12:33
    trong sự tồn tại và tiếp nối
    ngôn ngữ và văn hóa bản địa
  • 12:33 - 12:35
    chẳng có sự hòa hợp nào cả.
  • 12:35 - 12:37
    Đó là sự đồng hóa,
  • 12:37 - 12:40
    và điều này không được
    chấp nhận bởi bất kỳ ai trong chúng ta.
  • 12:40 - 12:44
    Nhưng những gì chúng ta có thể làm
    là trông chờ vào lời kêu gọi hành động,
  • 12:44 - 12:46
    ta có thể mong đợi tuyên bố của
    Liên Hiệp Quốc
  • 12:46 - 12:47
    về Quyền của người Bản địa
  • 12:47 - 12:49
    và ta có thể đưa đến một cách hiểu chung
  • 12:49 - 12:51
    những gì chúng ta sở hữu,
  • 12:51 - 12:53
    liên quan tới ngôn ngữ
    và di sản văn hóa
  • 12:53 - 12:55
    đối với người dân bản địa ở đất này,
  • 12:55 - 12:56
    xứng đáng được lưu giữ.
  • 12:57 - 13:00
    Dựa vào những điều đó, ta có thể tiến tới,
  • 13:00 - 13:01
    cùng nhau,
  • 13:01 - 13:04
    để đảm bảo rằng ngôn ngữ địa phương
    được truyền lại
  • 13:04 - 13:06
    vượt xa năm 2050, qua thế hệ tiếp nối,
  • 13:06 - 13:08
    truyền tới các thế hệ con cháu sau này.
  • 13:10 - 13:12
    Miigwech. Niawen’kó:wa. Xin cảm ơn.
  • 13:12 - 13:17
    (Tiếng vỗ tay)
Title:
Lịch sử của những ngôn ngữ bản địa -- và làm thế nào để hồi sinh chúng
Speaker:
Lindsay Morcom
Description:

Nhà ngôn ngữ học Lindsay Morcom cho biết, các ngôn ngữ bản địa trên khắp Bắc Mỹ đang bị đe dọa tuyệt chủng do di sản thuộc địa bị xóa bỏ văn hóa. Nhấn mạnh các chiến lược cơ sở do người Anishinaabe ở Canada phát triển để làm sống lại ngôn ngữ và cộng đồng của họ, Morcom đã tạo ra một tấm gương đầy nhiệt huyết để ban hành các chính sách có thể bảo vệ di sản bản địa cho các thế hệ sắp tới.

more » « less
Video Language:
English
Team:
closed TED
Project:
TEDTalks
Duration:
13:29

Vietnamese subtitles

Revisions